Scholar Hub/Chủ đề/#văn hóa việt/
Văn hóa Việt là tập hợp những giá trị, quy tắc, tập tục, phong tục, truyền thống, tín ngưỡng và lối sống của người dân Việt Nam. Đây là một hệ thống văn hóa pho...
Văn hóa Việt là tập hợp những giá trị, quy tắc, tập tục, phong tục, truyền thống, tín ngưỡng và lối sống của người dân Việt Nam. Đây là một hệ thống văn hóa phong phú và đặc trưng, đã phát triển qua hàng nghìn năm lịch sử. Văn hóa Việt có sự đa dạng với các yếu tố như văn hóa dân gian, văn hóa tôn giáo, văn hóa văn minh và văn hóa đạo đức.
Văn hóa Việt thường nhấn mạnh đến các giá trị như lòng hiếu thảo, tôn trọng gia đình và xã hội, lòng trung thuỷ, trách nhiệm và lòng tự trọng trong cộng đồng. Văn hóa Việt còn được chú trọng đến các giá trị nghệ thuật như âm nhạc, hội họa, điêu khắc và văn học. Các truyền thống văn hóa như áo dài, đền ngọc sơn, lễ hội tết Nguyên Đán và ẩm thực cũng là những biểu hiện đặc trưng của văn hóa Việt.
Văn hóa Việt Nam có nhiều đặc điểm đa dạng và phong phú, phản ánh sự giao thoa của các dòng văn hóa và nền văn hóa từ các thể chế và dân tộc khác nhau trong quá khứ.
1. Văn hóa dân gian: Văn hóa dân gian là một phần quan trọng của văn hóa Việt Nam. Đó là sự tích hợp của các truyền thống âm nhạc, cổ truyền, thậm chí thần thoại, truyền kỳ và văn hóa truyền miệng của người Việt. Các loại hình nghệ thuật dân gian như ca trù, quan họ, chèo, hát xẩm, đờn ca tài tử và hài kịch cải lương đều đặc trưng cho văn hóa dân gian Việt Nam.
2. Văn hóa tôn giáo: Tôn giáo đóng vai trò quan trọng trong văn hóa Việt Nam. Đa số người dân Việt Nam thực hành các tôn giáo như Phật giáo, Đạo giáo và Công giáo. Các ngôi chùa, miếu, đền và những lễ hội tôn giáo đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống và tư tưởng của người Việt.
3. Văn hóa văn minh: Văn hóa văn minh ở Việt Nam có sự ảnh hưởng từ các nền văn minh lớn khác như Trung Quốc, Ấn Độ, Champa và các nền văn minh phương Tây. Bước ngoặt lớn trong văn hóa Việt Nam là sự đánh dấu của văn học nôm, hình thức viết bằng chữ Hán đặc trưng riêng của người Việt trước khi chữ Quốc ngữ được giới thiệu.
4. Văn hóa đạo đức: Văn hóa đạo đức đóng vai trò quan trọng trong xã hội Việt Nam. Các giá trị như lòng hiếu thảo, tôn trọng người lớn tuổi, lòng trung thuỷ, trách nhiệm và tự trọng trong cộng đồng được coi là cốt lõi của văn hóa đạo đức Việt Nam.
5. Văn hóa ẩm thực: Ẩm thực Việt Nam có vị trí quan trọng trong văn hóa Việt Nam. Với nhiều món ăn đặc sản và đa dạng, ẩm thực Việt Nam đã trở thành một di sản văn hóa được công nhận. Các món phở, bún chả, nem, bánh chưng và bánh xèo là những thứ được biết đến rộng rãi trong cộng đồng quốc tế.
Văn hóa Việt Nam là một sự pha trộn của các giá trị truyền thống và hiện đại, giữ cho những phẩm chất của quá khứ nhưng cũng không ngừng tiếp thu và đổi mới để thích nghi với thế giới ngày nay.
Tác động văn hóa chéo đến não bộ: Các cấu trúc phổ quát cộng với sự biến đổi của hệ thống chữ viết Dịch bởi AI Human Brain Mapping - Tập 25 Số 1 - Trang 92-104 - 2005
Tóm tắtViệc nhận diện các từ in yêu cầu sự ánh xạ giữa các hình thức đồ họa, điều này thay đổi theo các hệ thống chữ viết, và các hình thức ngôn ngữ, điều này thay đổi theo các ngôn ngữ. Sử dụng một phương pháp phân tích tổng hợp mới được phát triển, các nguồn ước lượng Gaussian tổng hợp (AGES; Chein et al. [2002]: Psychol Behav 77:635–639), chúng tôi đã xem xét các kết quả chụp thần kinh liên quan đến việc đọc từ trong và giữa các hệ thống chữ viết và ngôn ngữ. Để tìm ra những điểm chung, chúng tôi đã tổng hợp 25 nghiên cứu bằng tiếng Anh và các ngôn ngữ Tây Âu khác sử dụng hệ thống chữ viết theo kiểu chữ cái, 9 nghiên cứu về việc đọc tiếng Trung bản địa, 5 nghiên cứu về việc đọc Kana tiếng Nhật (âm tiết) và 4 nghiên cứu về việc đọc Kanji (biến thể hình thái-âm tiết). Sử dụng phương pháp AGES, chúng tôi đã tạo ra các hình ảnh tổng hợp trong mỗi hệ thống chữ viết, xác lập các điểm kích hoạt đáng tin cậy và so sánh các phát hiện giữa các hệ thống chữ viết và ngôn ngữ. Kết quả cho thấy rằng các hệ thống chữ viết này sử dụng một mạng lưới chung các vùng trong xử lý từ ngữ. Các hệ thống chữ viết phần lớn sử dụng cùng một hệ thống về mặt các vùng vỏ não lớn, nhưng việc định vị trong các vùng đó cho thấy sự khác biệt giữa các hệ thống chữ viết. Đặc biệt, vùng được gọi là vùng hình thức từ thị giác (VWFA) thể hiện sự gắn kết định vị rất đồng nhất trên các tác vụ và giữa các hệ thống chữ viết. Vùng này nằm ở hồi fusiform giữa bên trái là rất quan trọng đối với việc nhận diện từ ngữ trong các hệ thống chữ viết và ngôn ngữ khác nhau. Hum Brain Mapp 25:92–104, 2005. © 2005 Wiley‐Liss, Inc.
Cách thức nhận diện và nhầm lẫn thái độ người Việt: Phân tích nhận thức xuyên văn hóa và ngữ điệu phát biểu Dịch bởi AI 2011 International Conference on Asian Language Processing - - Trang 220-223 - 2011
Thái độ ngữ điệu, hay còn gọi là cảm xúc xã hội, là một phần chính trong tương tác trực tiếp và có liên quan đến ngôn ngữ qua văn hóa. Bài báo này trình bày một nghiên cứu về thái độ ngữ điệu trong tiếng Việt, một ngôn ngữ có thanh điệu. Các thí nghiệm về nhận thức đã được thực hiện với 16 thái độ của người Việt với sự tham gia của người Việt và người Pháp. Kết quả cho thấy sự khác biệt trong nhận thức giữa người nghe bản ngữ và người nghe không phải bản ngữ. Do các biểu hiện thái độ một phần được truyền tải qua ngữ điệu phát biểu, một phân tích cũng đã được thực hiện nhằm có được hiểu biết tốt hơn về lý do tại sao những thái độ này được nhận diện hoặc nhầm lẫn, và để làm nổi bật một số đặc trưng ngữ điệu của các cảm xúc xã hội Việt Nam.
#Vietnamese #attitude #cross-cultural perception #prosodic analysis
ĐƯỜNG HƯỚNG LIÊN VĂN HÓA TRONG GIẢNG DẠY TIẾNG ANH: TIẾNG NÓI TỪ GIẢNG VIÊN TIẾNG ANH TẠI VIỆT NAMTrong những thập kỷ gần đây, ngày càng có nhiều sự quan tâm đến việc triển khai đường hướng liên văn hóa (ĐHLVH) trong giảng dạy ngôn ngữ để nâng cao năng lực giao tiếp liên văn hóa (NLGTLVH) của học sinh, khả năng tương tác qua các ranh giới về ngôn ngữ và văn hóa. Bài báo này cung cấp kết quả của một nghiên cứu về việc kiểm tra thực hành giảng dạy tiếng Anh (GDTA) của hai giảng viên tiếng Anh (GVTA) tại Việt Nam nhằm điều tra xem họ có triển khai ĐHLVH trong việc giảng dạy của họ hay không và họ thực hiện việc đó bằng cách nào. Nghiên cứu được thực hiện theo phương pháp nghiên cứu trường hợp định tính. Dữ liệu được thu thập từ các cuộc phỏng vấn, quan sát lớp học và văn bản. Kết quả của nghiên cứu cho thấy hai giảng viên này chưa thực sự triển khai ĐHLVH trong các bài giảng của họ. Nói một cách cụ thể, họ có thể truyền tải kiến thức liên văn hóa cho học sinh của mình; tuy nhiên, họ không thể phát triển thái độ, kỹ năng hoặc nhận thức liên văn hóa của học sinh. Khi cung cấp kiến thức văn hóa, họ chủ yếu dựa vào nội dung văn hóa trong sách giáo khoa và sự hiểu biết của họ. Bài báo làm sáng tỏ những yếu tố có ảnh hưởng đến việc thực hành GDTA của GVTA tại Việt Nam và đưa ra những đề xuất trong việc nâng cao NLGTLVH của học sinh Việt Nam.
#intercultural communicative competence (ICC) #intercultural dimension (ID) #English language teaching (ELT) #teachers’ practices #Vietnamese higher education (VHE)
“CHÓ” TRONG NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA TRUNG - VIỆTChó là một trong mười hai con giáp gắn bó mật thiết với đời sống và văn hóa nông nghiệp của hai nước Việt - Trung. Trải qua quá trình tiếp xúc, thuần hóa coi làm vật nuôi trong nhà, con người đã phát hiện được những thuộc tính bản chất mang tính hai mặt của chó và liên hệ với đời sống xã hội. Từ đó hình thành nên một lớp từ ngữ có chứa tên loài vật rất gần gũi này với những tầng nghĩa đa dạng, thể hiện rõ nét đặc điểm tri nhận của nhân dân hai nước. Bài viết sử dụng những phương pháp và thủ pháp nghiên cứu như thống kê, miêu tả, phân tích, so sánh đối chiếu, trên ngữ liệu thu thập từ từ điển và trong các tác phẩm văn học cũng như thực tế đời sống, tiến hành phân tích, đối chiếu các tầng nghĩa của những từ ngữ có chứa tên gọi chó trong tiếng Hán và tiếng Việt, chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa chúng.
#chó #tiếng Hán #tiếng Việt #ẩn dụ
Ngoại giao văn hóa và vai trò của nó đối với chính trị Việt Nam từ 1986 đến nayTóm tắt. Ngoại giao văn hóa là một trong ba nhiệm vụ của ngoại giao ViệtNam thời kỳ hội nhập (bao gồm ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa). Với tính mềm dẻo và linh hoạt, ngoại giao văn hóa vừa là ánh sáng tinh thần, vừa là biện pháp và mục tiêu của chính sách đối ngoại Việt Nam, nó bổ trợ rất hữu hiệu cho các trụ cột khác, tạo thành một chính thể chính sách đối ngoại hoàn chỉnh trong thời kỳ đổi mới. Từ 1986 đến nay, ngoại giao văn hóa đã phát huy vai trò tích cực của mình đối với nền chính trị ViệtNam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc – hiện đại hóa đất nước, bảo vệ truyền thống văn hóa dân tộc và tiếp thu tinh hoa quốc tế.Từ khóa: ngoại giao văn hóa, chính trị Việt Nam.
Biển với lục địa: Biển Việt Nam trong các không gian biển Đông Nam Á Với Đông Nam Á, biển và đại dương luôn đóng vai trò quan trọng trong diễn tiến lịch sử, hình thành cấu trúc chính trị, hoạt động kinh tế và đời sống văn hóa khu vực. Biển là nhân tố đã chia tách Đông Nam Á thành hai thế giới là hải đảo và bán đảo. Nhưng, cũng chính biển đã tạo nên môi trường giao hòa năng động giữa các quốc gia khu vực. Biển là không gian sinh tồn, cung cấp nhiều nguồn tài nguyên và cũng là nơi tạo dựng những ý niệm chung về cộng đồng khu vực. Nhờ có biển Đông Nam Á mà các nền văn minh lớn của châu Á, thế giới mới có thể sớm giao tiếp, tìm được nhân tố kích hoạt cho những phát triển trội vượt về chính trị, sự chuyển hóa xã hội và tư duy văn hóa rộng lớn. Trong lịch sử, biển và lục địa luôn có mối quan hệ mật thiết. Biển đã góp phần tạo nên thế ứng đối năng động, sáng tạo của người Việt và cả người Chăm, Phù Nam... Điều chắc chắn là, trong thế ứng đối ấy, vượt lên những mục tiêu, lợi ích kinh tế là sự hình thành những giá trị, ý niệm thiêng liêng về vị thế, không gian lãnh thổ, lãnh hải và chủ quyền của một quốc gia độc lập.
#biển #không gian biển #giao thương #văn hóa biển #thể chế biển Đông Nam Á
Dinoflagellate cysts in surface sediments at Van Phong Bay, Khanh Hoa Province, Vietnam: distribution, abundance and potentially harmful algal bloomsStudies on dinoflagellate cysts provide important knowledge on the ecology of dinoflagellates and harmful algal blooms (HABs). In this study, distribution and abundance of dinoflagellate cysts in surface sediments from 17 stations at Van Phong Bay were analyzed. There were 55 different types of cysts representing 3 orders and 18 genera, and 8 unidentified cyst types recorded. Peridiniales was the most diverse order with 29 cyst types, including 20 Protoperidinium cyst types. There were 10 cyst types of 7 potential toxic dinoflagellate species and 4 of bloom forming species found, indicating a potential risk of harmful algal blooms in Van Phong Bay. Number of cyst types and density ranged from 12 to 31 types and from 115 to 3,760 per gram of dry weight sediment, respectively. Cysts of Leonella granifera were dominant at stations in the mouth of the Bay, while Scrippsiella trochoidea cysts dominated at all stations. Shannon diversity index (H') was low, varying from 1.192.72. There were two distinct cyst assemblages identified with 40% Bray-Curtis similarity, assemblage I with 2 stations (VP09 and VP10), and assemblage II with the other stations.
#Dinoflagellate cyst #Protoperidinium cyst #potentially HABs #sediment #Van Phong Bay #Vietnam.